Soạn bài Vịnh khoa thi hương của Tú Xương
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
Tú Xương 1870 – 1907, tên thật là Tế Xương, quê ở Nam Định, hiệu là Mộng Tích còn tự là Mặc Trai.
Từ nhỏ thông minh nhưng lớn lên đi thi lại gặp trắc trở trong con đường thi cử.
– Sự nghiệp:
• Ông để lại nhiều bài thơ có giá trị
• Dòng văn học: trào phúng
• Các tác phẩm tiêu biểu: mùng một tết viếng cô Ký, thương vợ, vịnh khoa thi hương…
2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác:
Vốn thông minh từ nhỏ tưởng kì thi đến với nhà thơ sẽ qua một cách dễ dàng nhưng đúng là học tài thi phận, nhà thơ liên tục trượt những kì thi đó. Nhà thơ thất vọng và tự trào phúng mình. Như thế mới có bài thơ vịnh khoa thi hương ra đời.
b. Thể thơ: thất ngôn bát cú đường luật
c. Bố cục: đề, thực,luận, kết
II. Phân tích
1. Hai câu thơ đầu: nhà thơ giới thiệu về kì thi
– Kì thi đó là kì thi nhà nước mở ra ba năm một lần -> rất lâu và khó khăn cho những người đi thi vì ba năm cnhuwxng chỉ quyết định có một vài người đỗ đạt.
– Tuy nhiên nhà thơ đã kể lại khoa thi ấy với hình thức là thi giữa trường Nam với trường Hà
– Chữ “lẫn” thể hiện sự lẫn lộn xáo trộn của kì thi
-> Nhà thơ như đang cười chính những người tổ chức ra kì thi ấy, ba năm một lần chỉ làm khổ những kẻ ngày đêm đèn sách để đợi chờ những kì thi ấy. Đến lúc không đỗ lại phải đợi ba năm, mà quãng thời gian ấy đâu phải là ngắn. Không những thế, tổ chức lại còn xếp lẫn sĩ tử của nơi này với nơi khác một cách xáo trộn không có quy cũ.
2. Hai câu thực: cảnh tượng khi đi thi
– Sĩ tử
• Nhà thơ đã sử dụng từ “ lôi thôi” để diễn tả bộ dạng của sĩ tử khi đi thi. Hình ảnh ấy hiện lên một hình dáng luộm thuộm, lếch thếch.
• “vai đeo lọ” -> thể hiện chăm chỉ miệt mài cho kì thi.
-> Tóm lại, những người sĩ tử hiện lên thật sự luộm thuộm bởi vì học tập họ còn không đê rý tới ngoại hình của mình ra sao, chỉ mong đỗ đạt làm được quan lớn thế nhưng chỉ rơi vào bế tắc mà thôi.
– Quan trường
• Đó là những ông to bà lớn cố gắng nạt nộ thét lớn “ ậm ọe “, tuy nhiên với từ tượng thanh mà nhà thơ dùng đã đủ để cho chúng ta thấy những nạt nộ ấy chỉ là cố làm ra cho oai mặt quan lớn mà thôi.
• Thực chất ra thì học vấn cũng chẳng đến đâu mà chỉ là giả tạo mà thôi
-> Chỉ với một vài từ tượng hình tượng thanh, những câu thơ hàm súc đã lột tả hết những mặt tiêu cực của thi cử. Những sĩ tử thì chỉ biết lao đầu vào học và đi còn quan trường những kẻ học vấn cũng chưa chắc bằng ai thì lại lên tiếng nạt nộ.
3. Hai câu luận: những ông to bà lớn đến trường thi
Quan sứ xuất hiện trong xe kép rợp trời. Đó không chỉ là một quan sứ mà còn có nhiều quan sứ khác.
Còn những bà phu nhân lại được nhà thơ gọi là mụ đầm -> thể hiện sự khinh bỉ
-> Những ông quan sứ đến những bà phu nhân đầm tha thướt đất được cung phụng như những công chứa bà hoàng ra xem thi cử mà đứng chẳng khác gì đi hội.
4. Hai câu kết: nhà thơ thẳng thắn phê bình và thể hiện thái độ của mình
– Câu hỏi tu từ nhằm nhấn mạnh vào trách nhiệm của những người làm quan sứ.
– Ăn mặc diêm dúa điệu đà làm gì, võng lọng cờ hoa xe kéo rợp trời mà làm gì khi không nghĩ tới những điều mà những sĩ tử phải trải qua.
– Bao nhiêu năm trời đèn sách vậy mà giờ đây lại chỉ trông coi vào một kì thì, đã thế nhà nước lại mở có ba năm một lần, rõ ràng là không nghĩ cho những khó khăn của người sĩ tử.
– Ngảnh cổ mà xem lại nước nhà -> giống như một lời nhắc nhở giận dữ của nhà thơ
III. Tổng kết
Nhà Thơ Tế Xương đã rất thành công với thơ trào phúng,mang tới cho chúng ta một cái nhìn về những cuộc thi của các cha ông ta ngày xưa. Nó không dễ dàng và mở ra thường xuyên giống như bây giờ. Thêm vào đó, những người gọi là có trách nhiệm tổ chức kì thì quan trọng đó lại không làm tròn trách nhiệm của mình, không hiểu được sĩ tử, thế mà kì thi đến vẫn còn ra oai nạt nộ.